Kính chào quý vị và các bạn đến thăm trang nhà www.dangtienrong.org

 

 

                 

 

 

Ý Nghĩa

 

Đảng Kỳ Tiên Rồng

 

 

 

Quốc Kỳ Do Thái được công bố vào năm 1948, ở trung tâm cờ đặt biểu tượng Tấm Khiên của Vua David kết hợp với Dấu Triện của Vua Solomon, gọi là Ngôi Sao David có 6 cánh tia, xuất hiện cách nay hơn bốn ngàn năm (National Flag consisting of a central Shield Of David (Hebrew: "Magen David," which is also popularly known as the Star of King David).

Trong chuyến hành hương thánh địa, tôi gặp và tâm tình với người thanh niên Israel trên chuyến du thuyền qua bờ Biển Hồ Galilee, anh cho tôi biết niềm tự tin và tự hào dân tộc của anh được thể hiện qua Kinh Thánh và Quốc Kỳ với Ngôi Sao David. Anh hỏi tôi về tình hình chính trị Việt Nam, thì tôi cũng mạnh dạn thưa rằng: "Tôi cũng như anh, tôi cũng có niềm tự tin và tự hào dân tộc Việt Nam qua Chánh Thuyết Tiên Rồng, được gọi là Kinh Việt và đảng kỳ Đạo Đức Việt Nam gọi là Cờ Phúc Đức, với Mặt Trời Đỏ toả 14 Tia Sáng được Tổ Tiên ghi khắc ở trung tâm của Trống Đồng Ngọc Lữ và Thạp Đồng Đào Thịnh.

 

Quốc Kỳ Do Thái

 

Đảng Kỳ Tiên Rồng

 

Chữ Đức, theo Việt Nho nghĩa là Mặt Trời 14 Tia được đặt trung tâm mặt Trống Đồng, gồm có bộ chữ "Thập Tứ Nhất Tâm," nghĩa là Mười Bốn người mà Một Lòng hay 14 người mà đồng tâm, anh em hay đồng bào cùng bọc Mẹ Cha Tiên Rồng. Vậy thì khi khắc trống đồng, Tổ Tiên đã dụng ý nhắc nhớ con cháu học hỏi về chủ đề Đạo Đức Tiên Rồng.

Cũng theo Việt Nho, chữ Đức có nghĩa là Phúc Đức, nhân đức, ân đức, đạo đức... Đức có nghĩa là hành động, hoạt động, thực hành của Đạo. Đức còn là cái thể của Trời Đất, đức là hành động, là thần lực, là sức mạnh của Trời Đất, lúc Đạo hoạt động, chuyển động. Vậy thì Đạo ở thể tĩnh của Trời Đất, và Đức ở thể động của Trời Đất. Đảng Kỳ Tiên Rồng ngày nay là cờ của Trời Đất, của Quốc Tổ và Hồn Thiêng Sông Núi phò trợ cho con cháu, tức lớp Thanh Niên Việt Nam thời đại đứng lên làm cuộc Cải Hoá Bản Thân, Cải Hoá Xã Hội và Giúp Dân Cứu Nước, theo Quan Niệm Sống Phúc Đức của Dân Tộc Việt, như sau:

Mỗi khi tai qua nạn khỏi hay gặp một điều lành, chúng ta đều nhắc tới phúc đức: “Nhờ phúc ông bà nên tôi vừa thoát nạn.” “Nhờ phúc nhà nên cháu vừa thi đỗ.” “Cầu phúc tổ tiên cho được mẹ tròn con vuông.”

Nhiều ca dao tục ngữ cũng nhắc tới phúc đức, và khuyên chúng ta gây phúc lập đức, “Có phúc làm quan.” “Tiên tích đức hậu tầm long.” “May phúc ba đời để lại.” Mừng một sự kiện tốt đẹp bất ngờ chúng ta buột miệng, “May phúc!” Trái lại lời nguyền rủa nặng nề vẫn là câu, “Đồ vô phúc!”

Làm Phúc: Phúc là điều tốt lành cho cuộc sống con người. Con người vừa được hưởng phúc, lại vừa có thể tạo ra phúc. Đang khi đức là kết quả của việc tạo phúc, mà cũng là nguyên ủy của việc hưởng phúc.

Chủ đích của việc phúc đức, cũng như linh huấn của Chánh Thuyết Tiên Rồng, là vừa làm cho chính mình được hạnh phúc, lại vừa gíup cho mọi người cũng được hưởng hạnh phúc với mình. Do đó, phúc đức là vừa do tâm thành thiện ý, lại vừa do kết qủa công việc sinh lợi cho người khác.

Hưởng Đức: Khi làm việc phúc đức, chẳng những chúng ta giúp ích cho người, mà chính chúng ta cũng được hưởng nhờ. Làm phúc thì được hưởng đức – Lợi vật chất thì do thu góp, mà ích phúc đức thì do san sẻ.

Chúng ta còn có thể lưu truyền phúc đức đến người khác. Do đó, con cháu được hưởng nhờ phúc đức của Tổ Tiên để lại.

Phúc Phận: Ngòai phúc đức Tổ Tiên, con người cũng hưởng phúc do Trời ban. Nhưng Phúc Trời lại khác nhau nơi từng con người.

Tầm độ hưởng nhờ Ơn Trời và Phúc Đức Tổ Tiên chính là phúc phận của mỗi con người. Mọi sự xảy đến trong một đời người đều do phúc phận. Cũng do phúc phận mà chúng ta có hay không, được hay mất bất cứ sự gì trên đời.

Việc phúc đức lại có thể làm thay đổi phúc phận. Nhờ làm nhiều phúc đức, do tâm thành và do kết qủa ơn ích, số phận chúng ta trở thành tốt đẹp hơn, tai qua nạn khỏi, phúc thọ gia tăng. Tùy duyên không có nghĩa là buông xuôi chấp nhận, mà để chờ duyên là chúng ta phải luôn chuẩn bị, phải tạo điều kiện, phải cố gắng làm việc phúc đức.

Thông thường chữ “Đức” có ý nghĩa đạo đức, nhân đức, ân đức, phúc đức. Chữ “Đức” còn có nghĩa là cái “Dụng của Đạo.” Chúng ta biết, đặc biệt theo triết lý Lão Học, đạo là cái thể của Trời Đất, còn đức là lúc đạo hoạt động, là cái dụng của đạo. Chúng ta có thể nói đạo là “tạo hóa” ở thể tĩnh, còn đức là “tạo hóa” ở thể động, hoạt động, là “thần lực” dựng nên vũ trụ, con người. Đức là sức mạnh của Trời! Chữ đức được Tổ Tiên ghi khắc trên mặt trống đồng Ngọc Lữ, “Mặt Trời 14 Tia.” (Thập tứ nhất tâm: 14 người mà một lòng).

Bởi thế Phúc Đức là quan niệm gắn liền với tâm hồn và cuộc sống của người dân Việt chúng ta, chẳng những đã ăn sâu trong tư tưởng, trong tâm hồn mà lại còn bộc phát ra trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, và để giúp cho chúng ta sống “hạnh phúc.”

Quan niệm Phúc Đức đã giúp cho toàn thể Dân Việt sống hạnh phúc qua mấy ngàn năm mà đã giữ trọn vẹn tâm hồn con người để làm người.

Khi nói tới phúc đức, chúng ta luôn nhớ tới Tổ Tiên Ông Bà là người khuất núi, dĩ nhiên không quên cám ơn Trời Phật, nhưng chúng ta nhận được ơn Trời Phật cũng là nhờ hồng phúc của Tổ Tiên Ông Bà.

Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi khi làm việc lành điều thiện, chúng ta ý thức rằng không những “mình làm mình hưởng,” mà còn dành để phúc đức đó cho cả dòng họ con cháu hưởng nhờ, “Làm lành để đức cho con.” “Quang tiền dư hậu.” “Tiên tích đức hậu tầm long.”

Quan niệm phúc đức đã giúp cho con người sống thật trong hiện tại, mà còn liên kết với qúa khứ vị lai, hầu sống trọn vẹn kiếp người. Do đó chúng ta có thể nói phúc đức là quan niệm sống hữu thần sâu xa, mà gần gũi với con người nhất. Quan niệm này là câu giải đáp cho họa duy vật vô thần thời nay, mà còn giúp chúng ta thoát ách duy tâm duy linh, đang làm con người coi thường thực tại hiện hữu của cuộc sống.

Bởi thế quan niệm phúc đức của Tổ Tiên là căn bản tâm linh cho đại cuộc Giúp Dân Cứu Nước ngày nay. Trong cuộc chiến đấu, phúc đức là tiêu chuẩn để phân định rõ ràng giữa chính nghĩa hay gian tà. Tiêu chuẩn phúc đức để kiểm chứng những việc chúng ta làm là cứu dân cứu nước, hay cướp nước hại dân.

Trong lịch sử cận đại, nhiều người ra hải ngoại cũng có thể tính chuyện cứu nước thoát ách Thực Dân Pháp, nhưng vì không xét vấn đề phúc đức như Tổ Tiên linh huấn, nên đã vô tình hay cố ý chấp nhận chủ thuyết vong bản ngoại lai. Thay vì khi trở về cứu dân cứu nước, thì thực tế họ đã làm những việc bán nước hại dân, bởi không phân biệt ý niệm chính – tà.

Giờ đây, nếu chúng ta không xét đến phúc đức ắt cũng chẳng khác Hồ Chí Minh năm xưa, cũng du nhập chủ thuyết Mác – Lê, cũng là đoàn quân viễn chính trở về cướp nước, cướp chính quyền, rồi cũng tranh giành quyền lợi, cũng đàn áp lương dân, và có khi còn gieo tai họa nặng nề hơn giặc nước hiện tại.
Có người hỏi rằng, trong chiến tranh chém giết, trong chính trị mưu mô mà chúng ta bàn chuyện phúc đức sao?

Thưa rằng nếu bắt buộc chúng ta phải chiến đấu để cứu người, giải cứu dân lành thì việc chém giết đó là việc làm phúc đức. Phúc đức không phải để tránh tác hại, dĩ nhiên chúng ta cần tránh chém giết thì càng tốt.

Nhưng khi không thể đặng đừng, chẳng những chúng ta không được quyền tránh, mà còn có bổn phận dấn thân cứu người vô tội. Việc giết giặc cứu người là việc làm phúc đức, và càng xả thân trừ ác thì phúc đức lại càng có nhiều.

Vì nguyên ủy của Chính Nghĩa là Làm Việc Phúc Đức, mưu cầu hạnh phúc cho con người. Ai làm hại Con Người thì dầu đạt được quyền uy hay giàu sang tột bực như tập đòan Cộng Sản cầm quyền thì vẫn không có chính nghĩa.

Trong đời sống con người chính nghĩa là quyết tâm đánh giặc cứu người. Giặc là tất cả những ai hay những gì làm suy hại hạnh phúc của con người và xã hội lòai người.

Mặc dù chính trị có mưu mô, chiến tranh có chém giết, nhưng quyền biến, mưu lược của chính trị là để củng cố xã hội, để trợ giúp cho cuộc sống của con người. Quân sự có máu lửa, chiến tranh tàn phá, nhưng Tổ Tiên cho rằng đó không phải là hiếu sát, cưỡng bức, khủng bố mà là đánh giặc nhằm giải cứu người vô tội.

Trong đại cuộc Giúp Dân Cứu Nước, chúng ta ý thức rõ ràng rằng mình đang đi cứu người, cứu anh em, cứu thân nhân, cứu nhau mà hợp thành đoàn quân nhân nghĩa đi giải cứu cả một dân tộc đang bị giam hãm đọa đày.

Trong lúc giải cứu dân tộc, chắc chắn có sự xô sát và tùy theo trường hợp mạnh yếu chúng ta lường trước tầm quan trọng trong việc cứu người mà chấp nhận thực thi. Tập đoàn cầm quyền ác nhân, cố bám vào đặc quyền đặc lợi của phe đảng riêng tử thì tranh đấu sống còn của dân tộc là chuyện khó tránh. Khi đó kẻ ác đền tội, và người thiện hưởng thêm phúc đức.

Ðại cuộc Giúp Dân Cứu Nước là việc làm phúc đức hết sức to lớn, mà chúng ta khó thể tưởng tượng, như lời Tổ Tiên linh huấn, “Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người!” Dù cho có bỏ công của ra xây cất chín cảnh chùa cho tăng ni tu luyện, cũng không bằng làm phúc cứu cho một người.

Thế vậy mà giờ đây chúng ta cứu cả trăm triệu người, khi ta bỏ công bỏ của ra toan tính và sẵn sàng hy sinh cả tính mạng, dành để mọi khả năng, chuẩn bị tổ chức chu đáo cho công cuộc dựng nước, thì phải nhận chân rằng đó là “Đại Phúc!”

Việc làm đại phúc đó, chẳng những chúng ta được hưởng, mà như Tổ Tiên đã nói, gia đình giòng họ con cháu và toàn thể dân tộc, ngay cả những người khuất núi và con cháu chưa sinh ra: “Quang tiền dư hậu” cũng được hưởng nhờ.

Do đó không phút giây dành để cho quê hương dân tộc là uổng phí, vì chính lúc chúng ta mưu cầu giải cứu lương dân, như Tổ Tiên xác quyết, “Ðại phúc đó dân tộc cũng được hưởng nhờ!”

Sở dĩ đã gần thế kỷ qua, Dân Nước chưa được giải cứu là vì chúng ta chưa có phúc đức, chưa đủ phúc đức, chưa góp thành đại phúc.

Khi chúng ta quan tâm giải cứu đồng bào, hay nói đơn giản hơn, khi nhớ tới đồng đội bị bắn ngã gục, tù đày cải tạo, hay lời trăn trối của người thân, lời thề khi bỏ nước ra đi. Và khi chúng ta nhớ tới đồng bào rên xiết dưới ách giặc Cộng mà quyết tâm hành động cứu giúp thì đó phải là đại phúc. Và khi đóng góp đủ đại phúc thì tất nhiên chúng ta sẽ cứu được dân nước.

Con người phàm tục như chúng ta mà còn biết quặn đau trước nỗi thống khổ của dân tộc mình, thì không lý Ðức Quốc Tổ và Hồn Thiêng Sông Núi hay Tổ Tiên Ông Bà lại làm ngơ, phó mặc con cháu chịu cảnh đọa đày?

Sở dĩ các Ðấng Linh Thiêng chưa thể ra tay oai linh trừ bạo cứu dân cứu nước, cũng chỉ vì tại chúng ta. Chúng ta không đóng góp phúc đức, không học hỏi, không có đủ phúc đức thì chưa xứng đáng làm tác nhân cho các Ngài xử dụng vào đại cuộc Giúp Dân Cứu Nước để gọi là, “Bất chiến tự nhiên thành.”

Nói theo kiểu Trạng Trình, “Bất chiến tự nhiên thành!” Sở dĩ được gọi là “bất chiến” vì trong việc “tham chiến” với Ðạo Binh Nhân Nghĩa của chúng ta đã nhận sự phù trợ của các Đấng Linh Thiêng. Với sự tham chiến cùng bao lớp con cháu trừ ác cứu dân được gọi là “bất chiến,” tất nhiên chúng ta không chỉ có được “sức thần” (sức mạnh, thần lực) mà còn đủ tài đủ trí, thông toàn và thành công thắng giặc.

Nhìn vào lịch sử thì những cuộc chiến thắng lớn thường kết tụ tinh anh sau vài trăm năm mới có, nếu ước tính từ Chiến Thắng Ðống Ða lịch sử thì tới nay cũng đã đủ thời gian cho “thiên tài cứu nước” sản sinh. Muốn thế, chúng ta phải đóng góp phúc đức, và “cộng tài cộng đức” tức là “cộng nghiệp,” là tổ chức. Tổ chức hợp thời đại thì mới thành công.

Kể từ Chiến Thắng Ðống Ða đã hơn hai trăm mùa xuân trôi qua với bao vật đổi sao dời, nhưng chiến công hiển hách của người anh hùng áo vải khởi nghĩa của đất Tây Sơn vào Tết Kỷ Dậu năm xưa vẫn oai linh ngời sáng. Và ngọn lửa Cứu Nước ấy luôn luôn bừng cháy nung đúc tình yêu nước thương dân của bao thanh niên hào kiệt anh tài, noi gương Ðại Ðế Quang Trung mở ra trang sử hiển hách và dựng lại Kỳ Đài Bách Việt, hay được gọi là Hoa Tiên Rồng Mở Hội của ngày nay.

Và trong nỗi đau quốc nạn, mỗi người chúng ta cần suy niệm phúc đức của Tổ Tiên, lúc ấy chúng ta mới vững dạ sắt gan, bừng lên hùng khí mà vượt qua giai đoạn chiến đấu khó khăn nhất, chính là chiến thắng ngay tự trong tâm hồn của mổi người mà ra, mà có, mà thành.

Nhiều người cũng đang chú tâm tìm kiếm “minh quân, thánh chúa.” Xin hỏi hễ là con người thì ai có đủ tài đức lớn để cứu được toàn dân? Nếu có, phải chăng chúng ta nhờ có phúc đức cùng nhau đóng góp trong tổ chức mà người lãnh đạo được bầu làm đại diện.

Các Vị Anh Hùng trong lịch sử được gọi là đủ tài, đủ đức cũng do Các Ngài cộng tài, cộng đức trong những tổ chức của Các Ngài. Và Phúc Ðức ngày nay qủa là một tiêu chuẩn, là thước đo được dùng trong một tổ chức để xét đúng sai, chính tà.

Phúc đức là quan niệm căn bản cho mọi hoạt động cứu nước của chúng ta ngày nay. Do đó chúng ta ý thức rõ ràng rằng, mỗi phút giây, mỗi hành động lo liệu cho quê hương đồng bào là những việc đại phúc.

Bằng nhờ vào quan niệm phúc đức mà chúng ta không còn bơ vơ hay chán nản lạc lõng trong cuộc sống gọi là tẻ nhạt thường nhật, vì mỗi phút giây dành để cho quê hương, là đại phúc.

Phúc đức đó, chẳng những chính mình, gia đình dòng tộc được hưởng, mà quê hương dân tộc cũng được hưởng nhờ. Bởi có đủ phúc đức thì mới cứu được dân nước.

Như thế tổ chức chính danh là tụ điểm giúp nhau thêm tài thêm đức, và cộng tài cộng đức để giải cứu đồng bào. Mỗi phút giây cho quê hương là đại phúc. Xin góp tài đức làm sức mạnh diệt giặc.
Cờ Mặt Trời Phúc Đức đã toả sáng, con đường đã vạch, phương thức đã sẵn, giờ hành động đã điểm, Thanh Niên Việt Nam tiến lên, đem ánh sáng thần diệu Tiên Rồng mở đầu Một Kỷ Nguyên Mới và dựng lại Kỳ Đài Bách Việt.

Kính mời Quý Vị và Quý Bạn tham khảo các bài viết

ở trang dấu nối

>1. Hoa Tiên Rồng<

>2. Tuyên Ngôn & Chúc Văn Tế Tổ<

>3. Hiến Chương Tiên Rồng<

 
 

 

BAN NGHIÊN HUẤN

 

 

Số Truy Cập

 website hits counter

 

 

 

|Trang Nhà| |Cánh Kinh Thương| |Cánh Thanh Niên| |Cánh Xã Hội| |Cánh Chính Trị| |Ý Kiến|

 

© 2019 Dang Tien Rong (DTR) Vietnamese Political Party. All Rights Reserved

© Educational Tien Rong Theory Research - Competencies for Analysis and Application